BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

HỆ THỐNG THÔNG TIN BỘ VỚI NGƯỜI DÂN VÀ DOANH NGHIỆP

Thời gian thử việc không được tính hưởng trợ cấp thôi việc

27/06/2019

Công ty TNHH Công nghệ giao tiếp Wise - Concetti hỏi: Theo như Doanh nghiệp tìm hiểu, Nghị định 148/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 15/12/2018, sửa đổi, bổ sung Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động. Theo đó, thời gian người lao động (NLĐ) đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động (NSDLĐ) khi tính trợ cấp thôi việc, mất việc làm *không* bao gồm thời gian thử việc, học nghề, tập nghề của NLĐ là thời gian làm việc để chi trả trợ cấp.

Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp hợp đồng lao động (HĐLĐ) được giao kết và có hiệu lực trước ngày 1/5/2013 thì nội dung của HĐLĐ bao gồm cả nội dung thỏa thuận về thử việc, vì vậy khi HĐLĐ chấm dứt sau ngày Nghị định số 148/2018/NĐ-CP nêu trên có hiệu lực (ngày 15/12/2018) thì thời gian làm việc thực tế của NLĐ cho NSDLĐ làm căn cứ để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm bao gồm cả thời gian thử việc trong hợp đồng lao động.

Tuy nhiên, chúng tôi không nắm rõ, liệu NSDLĐ có phải chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ trong trường hợp sau đây:

- HĐ thử việc (HĐTV) và HĐLĐ được giao kết và có hiệu lực sau ngày 1/5/2013 (ví dụ: HDTV: 1/5/2017 và HĐLĐ: 1/7/2017), và - NLĐ đã làm việc cho NSDLĐ > 1 năm, và - NLĐ xin chấm dứt HĐLĐ vào thời điểm sau khi Nghị định 148/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (ví dụ: NLĐ xin nghỉ việc từ ngày 1/4/2019 tại DN).

Vấn đề này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Văn bản số  318/QHLĐTL-CSLĐ trả lời doanh nghiệp như sau:

1. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 Bộ Luật lao động 2012 thì người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc.

2. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ Luật lao động 2012 thì khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, môi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

3. Theo quy định tại Khoản 5 Điều 1 Nghị định số 148/2016/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động (có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 12 năm 2018) thì: thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thời gian nghỉ hàng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật lao động; thời gian nghỉ việc để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương, thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo Điều 129 của Bộ luật lao động.

Căn cứ quy định nêu trên và nội dung hỏi của Công ty thì thời gian người lao động và người sử dụng lao động giao kết hợp đồng thử việc không được tính vào thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động để trả trợ cấp thôi việc.